“Tùng dinh dinh” và “ánh đèn ông sao” đầu tiên
Rằm tháng Tám 1945 diễn ra ngay sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập. Vận nước hay tình cờ (?) nhưng Ngày Tết của thiếu nhi đã trở thành một trong những ngày lễ đầu tiên được tiến hành trọng thể ở nước Việt Nam và xuất hiện trên bản đồ thế giới.
Bất chấp muôn vàn thách thức của thù trong, giặc ngoài, của “giặc đói, giặc dốt”... vẫn hoành hành, Chính quyền mới đã tổ chức Tết Trung thu. Đây là một lễ hội cổ truyền của nền văn minh lúa nước dành cho trẻ em hằng năm, vào dịp trăng tròn giữa mùa thu.
Các thanh niên Cứu quốc Hoàng Diệu – “đội cận vệ Thanh niên” của Lâm thời Chính phủ Việt Nam đã đưa các em nhỏ tới thăm Cụ Hồ. Những “cô bé Hà Nội” ngày ấy, nay đã ở tuổi “xưa nay hiếm”, vẫn nhớ về Tết Trung Thu đầu tiên thoát ách thuộc địa, khi người đứng đầu nhà nước đã cao tuổi chuyện trò với thiếu nhi, coi các cô bé ngang hàng với các cậu.
Lần đầu tiên những em nhỏ tới thăm vị Chủ tịch nước được Người gọi là “những công dân nhỏ của đất nước tự do”. Các nhà nghiên cứu Việt Nam học như Lady Borton, David Marr, Peter DeCaro... đã khảo sát kỹ các bước đi đầu tiên của chính phủ Việt Minh. Không hẹn mà nên, các nghiên cứu của họ phản ảnh những nỗ lực chưa từng có, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của Hồ Chí Minh và cộng sự, trong quá trình vận động cách mạng, đưa một xã hội Khổng giáo với các giáo lý nô dịch, lạc hậu kiểu tam tòng, quân thần phụ tử... “tiến lên nền dân chủ cộng hòa”.
Từ Tết Trung thu 1945 ấy, đã xuất hiện các giá trị văn hóa đầu tiên dành cho thiếu nhi: đèn ông sao như biểu hiện của quốc kỳ Việt Nam, tiếng trống ếch từ nay vang trong các hoạt động của Đội thiếu nhi, khẩu hiệu “tre già măng mọc” dần biến thành huy hiệu cho thiếu nhi... hình thành trào lưu sáng tác bài hát dành riêng cho thiếu nhi từ nay khởi nguồn, góp phần quan trọng định hình tâm hồn, nhân cách của “các công dân nhỏ tuổi” của nước Việt Nam hiện đại.
Các nhà Việt Nam học trong ngoài nước cho rằng hiệu ứng “Tết Trung thu” Hồ Chí Minh đã tác dụng tức thì. Theo Lady Borton, “ánh sao Bác Hồ” đã bùng nổ sự kết hợp lòng yêu nước theo truyền thống Việt với ý thức về những giá trị công dân ngay từ tuổi đầu xanh, quan trọng hơn, đã phát động được cả một cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ chưa từng có. Bà viết trong sách “Hồ Chí Minh – một hành trình”:
“Sau khi nghe Hồ Chủ tịch diễn thuyết, các em nhỏ chạy ra hồ Hoàn Kiếm. Nơi đây các anh chị phụ trách thiếu nhi đã làm giả ‘tàu chiến của Pháp’ từ những chiếc thuyền con có mái chèo. Các em nhỏ dùng ‘lựu đạn’ bằng vỏ trái bưởi, ném túi bụi vào “bọn giặc Pháp xâm lược Miền Nam” ngồi trên những ‘chiến hạm địch’ này, buộc chúng phải vội vã tháo lui.
Cuộc trận giả này chẳng bao lâu đã trở thành trận chiến thực sự. Chỉ một tháng sau, nhiều anh chị phụ trách, từng đưa trẻ em đến nghe Hồ Chí Minh nói chuyện vào dịp Trung Thu, đã gia nhập đoàn quân Việt Minh đi Nam tiến đánh giặc. Sau nữa, nhiều trong số những thiếu niên trên đã làm giao liên, hoạt động bí mật trong nội thành suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, mà cha mẹ họ không hề hay biết. Nhiều người dân Hà Nội, mà nay đã ở tuổi làm ông, làm bà, sẽ còn kể mãi rằng, chính cái Tết Trung Thu độc lập đầu tiên ấy đã châm ngòi cho nhận thức cách mạng của họ”...
Hôm nay, do nhiều lý do... ông trăng Trung Thu như không còn “tròn”, như ước vọng trên đường tới tuổi trăng tròn ngày nào, không còn thanh khiết như món quà văn hóa thuần Việt của người lớn dành cho con trẻ, không còn mộc mạc, dân gian như đồ chơi trong ký ức tuổi thơ của chính bậc cha mẹ.
Nhưng vẫn mong tiếng trống “tùng dinh dinh” và “ánh đèn ông sao” của những Trung Thu như 1945, của một di sản văn hóa truyền thống Lạc Hồng, vẫn dẫn đường cho thế hệ măng non Việt Nam, vững bước trên hành trình gập ghềnh của nỗ lực “sánh vai” với các nước bè bạn năm châu.